BREAKING NEWS

Friday, October 30, 2015

Grow PLUS+ – Sự lựa chọn cho trẻ suy dinh dưỡng thấp còi

Bé nhà bạn đang thấp bé nhẹ cân, ngoài việc tìm nguyên nhân để chữa trị, việc tăng cường dưỡng chất cho bé có thể nói là then chốt, hãy bổ sung những sản phẩm dinh dưỡng cân đối, năng lượng cao vào khẩu phần của bé, giúp bé nhanh chóng thoát khỏi tình trạng suy dinh dưỡng bắt kịp đà tăng trưởng. (xem thêm biểu hiện của trẻ suy dinh dưỡng)

GrowPLUS+ suy dinh dưỡng với công thức Weight Pro+ giàu dinh dưỡng, đầy đủ hàm lượng đạm, béo cần thiết cho trẻ thiếu cân gầy còm; với MCT – chất béo chuyển hóa nhanh giúp trẻ dễ tiêu hóa, dễ hấp thu; đồng thời việc được bổ sung Lysin, Kẽm, Fos/Inulin, Vitamin nhóm B kích thích sự ngon miệng, giúp trẻ thèm ăn; với Selen, Vitamin A-C-E, tăng cường bảo vệ cơ thể, giúp giảm nguy cơ mắc bệnh và phòng chống bệnh tật; ngoài ra GrowPLUS+ còn giúp phát triển trí não thông qua việc bổ sung DHA, AA, Omega 3, Omega 6, Taurin, Cholin trẻ sẽ thông minh, lanh lợi hơn.


GrowPLUS+ của NutiFood đã được Kiểm nghiệm lâm sàng bỡi Viện Dinh dưỡng Quốc gia, đạt hiệu quả tốt cho trẻ suy dinh dưỡng thấp còi, qua nghiên cứu cho thấy trẻ sử dụng GrowPLUS+ có cân nặng, chiều cao tăng lên rõ rệt, tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng đã được cải thiện, tăng cường hệ miễn dịch, giảm tỷ lệ trẻ mắc cũng như tần suất mắc các bệnh nhiễm trùng hô hấp cấp, tiêu chảy, táo bón; các chỉ số đánh giá phát triển vận động của trẻ đều tăng sau khi được sử dụng GrowPLUS+. Đặc biệt GrowPLUS+ được người tiêu dùng đánh giá là thơm ngon, dễ uống.

Để trẻ bắt kịp đà tăng trưởng

Hiện nay, việc chăm sóc trẻ toàn diện là sự quan tâm của gia đình và xã hội. Đặc biệt những trẻ em suy dinh dưỡng hoặc có nguy cơ suy dinh dưỡng cần phải được can thiệp về dinh dưỡng kịp thời, đúng mực để giúp trẻ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng này và bắt kịp đà tăng trưởng.

Grow PLUS+ của NutiFood đã được Kiểm nghiệm lâm sàng bởi Viện Dinh dưỡng Quốc gia, đảm bảo hiệu quả cho trẻ suy dinh dưỡng thấp còi. 2 – 3 ly Grow PLUS+ mỗi ngày cung cấp đầy đủ các dưỡng chất thiết yếu cho trẻ, công thức Weight Pro+ giàu dinh dưỡng, đầy đủ hàm lượng đạm, béo cần thiết giúp trẻ tăng cân, tăng chiều cao; với MCT – chất béo chuyển hóa nhanh giúp trẻ dễ tiêu hóa, dễ hấp thu; đồng thời kích thích sự ngon miệng nhờ được bổ sung Lysin, Kẽm, Fos/Inulin, Vitamin nhóm B giúp trẻ thèm ăn; tăng cường bảo vệ cơ thể với Selen, Vitamin A-C-E, giúp giảm nguy cơ mắc bệnh và phòng chống bệnh tật; ngoài ra Growplus còn giúp phát triển trí não thông qua việc bổ sung DHA, AA, Omega 3, Omega 6, Taurin, Cholin trẻ sẽ thông minh, lanh lợi hơn.

GrowPLUS+ đỏ đặc chế cho trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và GrowPLUS+ xanh giúp trẻ tăng cân khỏe mạnh.


Đặc biệt với hương vị thơm ngon dễ uống, qua nghiên cứu của Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia hơn 93% các bà mẹ, người nuôi trẻ đều tin dùng sản phẩm này.

Hãy theo dõi chiều cao và cân nặng trẻ hàng tháng để biết sự phát triển của con mình và hãy chọn lựa những sản phẩm dinh dưỡng phù hợp với cơ địa, thể trạng của các cháu để phát huy tối đa tiềm năng tố chất của mỗi trẻ, vì một thế hệ trẻ em tương lai của nước nhà không thua kém bạn bè trong khu vực và trên thế giới.

Hỏi đáp dinh dưỡng giúp bé tăng cân

Sản phẩm Grow PLUS+ được đảm bảo bởi Hệ thống Quản Lý Chất Lượng ABS-QE Hoa Kỳ, hoàn toàn không chứa bất kỳ chất kích thích tăng trưởng gây hại nào.

Bé nhẹ cân phải làm sao?

Hỏi: Con gái em được 29 tháng, cháu nhẹ cân chỉ được 11,5kg. Sáng cháu ăn 1 bát cháo, 9h uống 100ml sữa, 11h ăn cháo, 14h30 uống sữa, 18h ăn cháo, 21h uống 180ml sữa. Em cũng thay đổi món và cho bé ăn đủ như thịt bò, lợn, cá, cua, ngao… nhưng bé vẫn nhẹ cân. Bác sĩ cho em lời tư vấn để tăng cân cho bé ạ. Em xin cảm ơn!

Đáp: Chào bạn! Cháu hiện tại có cân nặng hơi thấp so với chuẩn, nhưng chưa suy dinh dưỡng bạn nhé. Bạn cho ăn số bữa như vậy là tốt rồi, các bữa ăn của bé ngoài cháo và các món thịt, cá được bạn thay đổi như vậy là rất tốt, bạn cần chú ý mỗi chén cháo của bé cần có 30 – 50g thịt, cá… như bạn chọn (chỉ tính phần ăn được) và 30g rau củ bằm mịn và 1 muổng canh dầu ăn nữa nhé, bên cạnh cần cho cháu ăn thêm 2 – 3 lần trái cây tươi trong ngày, có thể cho bé ăn thêm sữa chua, phô mai… Về sữa thì cháu uống như vậy hơi ít so với tuổi, bạn cần cho cháu uống mỗi lần khoảng 150 – 200ml, mỗi ngày ít nhất 500ml mới đủ nhé. Bé cần tăng cân nhanh một chút, vì vậy bạn cần tăng lượng thức ăn và sữa mỗi ngày so với hiện tại để bé tăng cân tốt hơn.


Lo lắng vì bé không lên cân.

Hỏi: Con trai em 12 tháng 20 ngày, nặng 10,5kg, cao 75cm. Em cho bé ăn 3 bữa trong ngày bé ăn rất tốt, uống sữa cũng nhiều nhưng mấy tháng liền bé không lên cân. Vậy em cần làm gì giúp bé lên cân nhanh ạ. Chân thành cảm ơn bác sĩ.

Đáp: Chào bạn! Hiện tại bé đang có chiều cao cân nặng rất tốt so với chuẩn, bé ăn tốt, uống sữa nhiều là một thuận lợi. Bạn nên chú ý 3 bữa ăn của bé mỗi bữa đủ 4 nhóm thực phẩm gồm cháo, thịt (cá, trứng, tôm, cua, lươn,…), rau củ và 1 muổng canh dầu ăn nhé, trong ngày cho bé ăn thêm 2 – 3 lần trái cây tươi, xen kẽ cho bé ăn thêm sữa chua, phô mai… để bé nhận đủ dinh dưỡng. Mỗi ngày bé cần uống 600 – 800ml sữa công thức theo độ tuổi nếu bé không còn bú mẹ. Bên cạnh đó, cần cho bé tắm nắng mỗi ngày và ngủ đủ giấc, ngủ sớm trước 10 giờ đêm, ngủ hơn 10 tiếng đồng hồ mỗi ngày giúp bé khỏe mạnh và tăng chiều cao tốt. Tuổi này bé không còn tăng cân nhanh như lúc nhỏ nữa, vì vậy bạn theo dõi cân nặng hàng tháng nếu bé tăng từ 100 – 300g là tốt nhất. Nếu bé không tăng cân trong 3 tháng liền bạn lo lắng là đúng, bạn có thể điều chỉnh chế độ ăn, chú ý dầu ăn và các chất dinh dưỡng như hướng dẫn, hy vọng bé sẽ tăng cân tốt.

Thân ái chào bạn!

  Sữa Grow Plus+ Dinh dưỡng đặc trị giúp trẻ tăng cân khỏe mạnh, lựa chọn cho trẻ từ 1 tuổi trở lên bị thiếu cân còi cọc. Sản phẩm được đảm bảo bởi Hệ thống Quản Lý Chất Lượng ABS-QE Hoa Kỳ, hoàn toàn không chứa bất kỳ chất kích thích tăng trưởng gây hại nào. Đặc biệt, với công thức Weight Pro, gồm 3 tổ hợp chất thiết yếu hỗ trợ tối đa giúp trẻ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng thiếu cân, gầy còm:
– Giàu dinh dưỡng: giàu năng lượng, chất đạm, chất béo cần thiết hỗ trợ quá trình phát triển cấu trúc và chức năng của cơ thể, rất cần thiết cho thể trạng thiếu cân, gầy còm của trẻ.
– Bảo vệ cơ thể: Các dưỡng chất hỗ trợ quá trình phát triển như Selen, Vitamin A, E, C tăng cường bảo vệ cơ thể khỏe mạnh.
– Kích thích ngon miệng: Lysin, kẽm, FOS/Inulin, Vitamin nhóm B hỗ trợ quá trình chuyển hóa, giúp trẻ hấp thu tốt chất dinh dưỡng đồng thời kích thích sự thèm ăn.
Đặc biệt sản phẩm có cả dạng bột và dạng pha sẵn tiện lợi với chất lượng hoàn toàn như nhau, bạn có thể an tâm cho bé mang theo đến trường, đi chơi, đi du lịch…

Xem thêm các chủ đề:

Nuôi trẻ lớn nhanh khỏe mạnh

Trong chăm sóc trẻ, các bà mẹ luôn muốn biết mình cho con ăn uống đã đúng chưa, trẻ tăng cân hợp lý chưa, cũng như phải theo dõi và điều chỉnh chế độ ăn cho trẻ như thế nào là phù hợp nhất?

Theo dõi tăng trưởng của trẻ

Thật sự không thể cân đong đo đếm chính xác năng lượng hàng ngày của trẻ được, nhưng chúng ta có thể biết được trẻ ăn đã đủ hay thiếu hay dư thừa là nhờ vào sự tăng cân của trẻ hàng tháng, so sánh với biểu đồ tăng trưởng. Nếu cân nặng của trẻ tăng quá nhanh so với chuẩn thì trẻ đã bị dư thừa năng lượng rồi. Trường hợp trẻ không tăng cân hoặc tăng cân quá ít so với chuẩn chứng tỏ trẻ đang bị thiếu năng lượng trong khẩu phần ăn hàng ngày.

Như vậy, việc theo dõi tăng trưởng của trẻ có thể giúp các mẹ nuôi trẻ “mập ốm” theo ý muốn rồi đó, bằng cách tăng giảm khẩu phần ăn của trẻ. Tuy nhiên, các mẹ nên thay đổi quan niệm một chút nhé, không nên đánh giá sức khỏe của trẻ bằng cách nhìn bề ngoài “tròn tròn, bụ bẫm” là “khỏe mạnh, dễ thương”. Mà cần phải theo dõi sự phát triển của trẻ bằng biểu đồ tăng trưởng, và trẻ khỏe mạnh là trẻ cân đối, có cân nặng chiều cao trong giới hạn bình thường theo tuổi, trẻ không suy dinh dưỡng cũng không thừa cân béo phì.

Trẻ tăng cân nhanh có tốt không?

Trẻ phát triển tốt nhất là tăng cân trong giới hạn bình thường theo độ tuổi, ở trẻ trên 1 tuổi mỗi năm tăng từ 2 – 3kg là bình thường, mỗi tháng trẻ tăng từ 100 – 200g tối đa 300g, nếu tháng nào trẻ tăng hơn 300g chứng tỏ mẹ đang cho trẻ ăn thừa năng lượng, cần giảm các thức ăn cung cấp nhiều năng lượng trong khẩu phần của trẻ như cháo, cơm, bún, phở…, dầu, mỡ… so với hiện tại, không cho trẻ ăn bánh, kẹo ngọt, chè, kem… nhưng chú ý đảm bảo đủ đạm thiết yếu cho trẻ từ thịt, cá nạc, đậu đỗ, sữa… nên chọn sữa thấp năng lượng, ít béo, ít đường, tăng cường rau xanh, trái cây ít ngọt… Nếu mẹ điều chỉnh kịp thời sẽ giúp phòng chống thừa cân béo phì cho trẻ.


Làm gì khi trẻ chậm tăng cân?

Trẻ chậm tăng cân, nếu không phải trẻ đang bệnh hoặc mới khỏi bệnh chứng tỏ chế độ dinh dưỡng cho trẻ đang bị thiếu, đầu tiên là thiếu năng lượng, sau đó là các chất dinh dưỡng như đạm, béo, vitamin, khoáng chất… Lúc này, cần tăng cường chế độ dinh dưỡng giúp trẻ tăng cân nhiều hơn để phòng tránh suy dinh dưỡng(xem thêm thế nào là suy dinh dưỡng)

Chế độ ăn lúc này tốt nhất nên nhiều hơn ngày thường mỗi ngày một bữa để bù vào phần thiếu hụt, tùy độ tuổi có thể là cơm, cháo hoặc sữa… Khẩu phần ăn hàng ngày vừa đảm bảo đủ vừa đảm bảo tính cân đối giữa năng lượng và các chất dinh dưỡng (4 nhóm thức ăn chính), giữa các chất dinh dưỡng với nhau, trong đó cần chú ý tỷ lệ hợp lý protein nguồn gốc động vật và protein nguồn gốc thực vật, các loại vitamin (A, B, C, D) và các khoáng chất như canxi, phospho, kẽm… Sử dụng các loại thực phẩm giàu dưỡng chất, giàu năng lượng, giàu protein, chất khoáng và vitamin cho bữa ăn của trẻ như đậu, rau xanh, quả chín, thịt, cá, trứng, sữa… và dầu mỡ trong mỗi bữa ăn, nên chọn sữa giúp tăng cân phù hợp theo độ tuổi.

Chế biến thức ăn đảm bảo hợp vệ sinh, cách nấu phải phù hợp sự tiêu hóa của mỗi độ tuổi, ví dụ trẻ chưa có răng phải nấu nhừ, băm nhuyễn, trẻ đủ răng có thể nhai thức ăn lợn cợn hơn, nguyên miếng nhưng cũng chú ý cắt thật mỏng, nấu thật mềm giúp bé dễ nhai, dễ nuốt và tiêu hóa tốt hơn. Ngược lại, cùng một loại thức ăn nhưng nếu cho bé ăn cứng hoặc quá thô có thể làm tăng “gánh nặng” cho hệ tiêu hóa của trẻ, làm trẻ khó hấp thu hết gây thiếu hụt dinh dưỡng và còi cọc.

Cho trẻ ăn đúng cách, ngay từ khi trẻ bắt đầu ăn dặm, các mẹ cần chú ý tạo cho trẻ ăn uống đúng giờ, tạo nền nếp ăn uống tốt, chia đều các bữa ăn trong ngày, không cho trẻ ăn lặt vặt giữa các bữa này vì sợ trẻ đói, khiến trẻ luôn có cảm giác no, không muốn ăn gây chán ăn dẫn đến thiếu dinh dưỡng. Hãy để trẻ đói trẻ sẽ ăn ngon miệng và hiệu quả dinh dưỡng cao hơn. Không nên biến bữa ăn trở thành áp lực với trẻ như la rầy, bắt ép trẻ ăn khi trẻ no hoặc không muốn ăn nữa. Nên chuẩn bị thức ăn thay thế bù vào (có thể là sữa hoặc bánh flan, chè…) khi trẻ bỏ bữa hoặc ăn được ít, không để trẻ đói, thiếu dinh dưỡng.

Dinh dưỡng đúng cách giúp trẻ phát triển cân đối, toàn diện, lớn nhanh, khỏe mạnh không để trẻ em suy dinh dưỡng nhưng cũng luôn lưu ý không ép trẻ ăn quá nhu cầu, thừa năng lượng gây thừa cân béo phì.


Xem thêm các chủ đề:

Chế độ ăn cho trẻ suy dinh dưỡng

Suy dinh dưỡng là tình trạng cơ thể không được cung cấp đầy đủ năng lượng và chất đạm cũng như các yếu tố vi lượng khác để đảm bảo cho cơ thể phát triển. Đây là tình trạng bệnh lý hay gặp ở trẻ nhỏ dưới 3 tuổi.

1. Nguyên nhân dẫn đến suy dinh dưỡng ở trẻ em:

Thường là do tổng hợp từ nhiều yếu tố:

– Do dinh dưỡng: Nuôi trẻ không đúng phương pháp khi mẹ thiếu hoặc mất sữa, cho trẻ ăn bổ sung không đúng cả về số lượng và chất lượng, nguyên nhân quan trọng nhất hay gặp là do bà mẹ thiếu kiến thức dinh dưỡng hoặc không có thời gian chăm sóc con cái.
– Do ốm đau kéo dài: Trẻ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiêu hóa nhiều lần, biến chứng sau các bệnh viêm phổi, sởi, lỵ…
– Do thể tạng dị tật: Trẻ đẻ non, suy dinh dưỡng bào thai, các dị tật sứt môi, hở hàm ếch, tim bẩm sinh.
– Do điều kiện kinh tế xã hội: Suy dinh dưỡng là một bệnh của nghèo nàn và lạc hậu, có liên quan đến kinh tế, văn hóa, dân trí. Đây là mô hình hệ bệnh tật đặc trưng của các nước đang phát triển.
Muốn biết trẻ có bị suy dinh dưỡng hay không các bà mẹ cần phải theo dõi cân nặng thường xuyên cho trẻ trên biểu đồ phát triển. Nếu thấy 2-3 tháng liền trẻ không tăng cân cần phải đưa trẻ đi khám bác sĩ để tìm hiểu nguyên nhân.(xem thêm thế nào là suy dinh dưỡng)

Theo tiêu chuẩn cân nặng/tuổi người ta chia suy dinh dưỡng làm 3 độ:

– Suy dinh dưỡng Độ I: Trọng lượng còn 90% so với tuổi
– Suy dinh dưỡng Độ II: Trọng lượng còn 75% so với tuổi
– Suy dinh dưỡng Độ III: Trọng lượng còn dưới 60% so với tuổi.


2. Biểu hiện của trẻ suy dinh dưỡng

– Không lên cân hoặc giảm cân
– Teo mỡ ở cánh tay, thịt nhẽo.
– Teo nhỏ: mất hết lớp mỡ dưới da bụng.
– Da xanh, tóc thưa rụng dễ gãy, đổi màu.
– Ăn kém, hay bị rối loạn tiêu hóa: ỉa phân sống, ỉa chảy hay gặp.
– Thể nặng: Có phù hoặc teo đét, có thể biểu hiện của thiếu vitamin gây quáng gà, khô giác mạc đến loét giác mạc. Hiện nay thể nặng rất hiếm gặp.

3. Các bà mẹ cần phải làm gì khi trẻ bị suy dinh dưỡng.

Với thể vừa và nhẹ (độ I và độ II): Điều trị tại nhà bằng chế độ ăn và chăm sóc.

– Chế độ ăn: Cho trẻ bú mẹ theo nhu cầu, bất cứ lúc nào kể cả ban đêm.
– Nếu mẹ thiếu hoặc mất sữa: Dùng các loại sữa bột công thức theo tháng tuổi, sữa cho trẻ suy dinh dưỡng hoặc dùng sữa đậu nành (đậu tương).
– Đối với trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên cho trẻ ăn bổ sung theo tháng tuổi nhưng số bữa ăn phải tăng lên, thức ăn phải nấu kỹ, nấu xong ăn ngay.
– Tăng đậm độ năng lượng của bữa ăn bằng cách cho tăng thêm enzym (men tiêu hóa) trong các hạt nảy mầm để làm lỏng thức ăn và tăng độ nhiệt lượng của thức ăn. Cụ thể là: có thể dùng giá đậu xanh để làm lỏng thức ăn cho trẻ, tức là có thể tăng lượng bột khô lên 2-3 lần mà độ lỏng của bột không thay đổi. Cứ 10g bột cho 10g giá đậu xanh giã nhỏ lọc lấy nước.

4. Những loại thực phẩm nên dùng cho trẻ suy dinh dưỡng.

– Gạo, khoai tây.
– Thịt: gà, lợn, bò, tôm, cua, cá, trứng.
– Sữa bột giàu năng lượng: Theo hướng dẫn cụ thể của Bác sĩ.
– Dầu, mỡ.
– Các loại rau xanh và quả chín.

5. Chế độ ăn với bé suy dinh dưỡng nặng (độ III).

Cho nhiều bữa trong ngày.

– Tăng dần calo.
– Dùng sữa cao năng lượng: Theo chỉ định và tư vấn trực tiếp của Bác sĩ
Trẻ cần được ăn bổ sung theo các chế độ ăn giống như trẻ bình thường. Số lượng một bữa có thể ít hơn nhưng số bữa ăn nhiều hơn trẻ bình thường.

Những trẻ có suy dinh dưỡng nặng kèm theo tiêu chảy hoặc viêm phổi phải đưa vào điều trị tại bệnh viện.

6. Ngoài chế độ ăn còn cho trẻ ăn bổ sung thêm một số Vitamin và muối khoáng.

– Các loại Vitamin tổng hợp.
– Chế phẩm có chứa sắt chống thiếu máu.
– Men tiêu hóa (nhưng phải dùng theo chỉ định của thầy thuốc).


– Bé phải được vệ sinh, tắm rửa sạch sẽ.
– Phải giữ ấm về mùa đông, phòng ở thoáng mát về mùa hè, đầy đủ ánh sáng.


8. Một số mẫu thực đơn phục hồi trẻ suy dinh dưỡng tại nhà (SDD độ I và II).

Các bạn có thể tham khảo và áp dụng một số thực đơn sau để phục hồi trẻ suy dinh dưỡng tại nhà:

– Trẻ dưới 6 tháng: Bú sữa mẹ theo nhu cầu của trẻ. Chú ý chăm sóc dinh dưỡng cho Bà mẹ để mẹ có đủ sữa nuôi con (Bà mẹ cần ăn đủ, ngủ tốt, làm việc nhẹ nhàng). Trường hợp mẹ không đủ sữa mà phải dùng các sản phẩm thay thế sữa mẹ thì phải có chỉ định của Bác sĩ.
– Trẻ từ 6 – 12 tháng:
Cho trẻ ăn nước cháo xay trộn sữa như trên nhưng tăng thêm lượng thịt, gạo và rau củ, trường hợp trẻ không thích ăn cháo trộn sữa thì dùng sữa cao năng lượng pha với nước sôi để ấm theo hướng dẫn mỗi ngày uống 500ml và cho ăn bột hoặc cháo xay 3 -4 bữa/ngày, trẻ ăn ít có thể tăng số bữa lên, dùng nước giá đậu xanh để làm lỏng thức ăn: 10g giá đậu xanh/10g bột (giá đậu xanh giã nhỏ lọc lấy nước nấu bột).
– Trẻ 13 -24 tháng:
6h: 150 – 200ml sữa cao năng lượng
9h: Cháo thịt + rau: 200ml (1 bát ăn cơm)
– Gạo tẻ: 30g (1 nắm tay)
– Thịt nạc: 50g (hoặc cá, tôm, cua: 50g, trứng gà: 1 quả)
– Dầu: 10ml (2 thìa cà phê)
– Rau xanh: 20g (2 thìa cà phê)
12h: Sữa: 200ml
14h: Chuối tiêu: 1 quả hoặc đu đủ 1 miếng
17h: Cháo thịt (cá, tôm, trứng) + rau + dầu
Nếu trẻ đang bú mẹ vẫn phải tiếp tục cho bú và thời gian cho bú kéo dài từ 18 – 24 tháng. Khi cai sữa vẫn nên cho trẻ ăn thêm sữa bò hoặc sữa đậu nành.
- Trẻ 25 – 36 tháng:
7h: Sữa cao năng lượng: 200ml
11h: Cơm nát + thịt (cá, trứng, tôm…) + canh rau.
Cơm: 2 lưng bát (70g gạo), thịt: 50g (hoặc trứng: 1 quả), rau: 100g, dầu (mỡ): 5g
14h: Cháo + thịt + rau + dầu: 200ml
Gạo tẻ: 30g (1 nắm tay), thịt nạc: 50g (hoặc cá, tôm, cua: 50g, trứng gà: 1 quả), dầu: 10ml (2 thìa cà phê), rau xanh:
20g (2 thìa cà phê).
17h: Cơm nát + trứng (thịt, cá, tôm…) + canh rau
20h: Hỗn hợp bột dinh dưỡng: 200ml, hoặc súp: khoai tây thịt + rau + dầu (mỡ): 1 bát con.
Súp khoai tây gồm có khoai tây: 100g (1 củ to), thịt (gà, bò, lợn): 50g, bắp cải: 50g, dầu (mỡ): 1 thìa cà phê.
Ăn thêm các loại quả chín theo nhu cầu của trẻ.

(PGS. TS. Nguyễn Thị Lâm, ThS. Lê Thị Hải – Theo Viện Dinh dưỡng)

Xem thêm các chủ đề:

Cha mẹ và nỗi lo con thấp bé nhẹ cân

Là cha mẹ ai cũng mong muốn dành cho con những gì tốt đẹp nhất, ai cũng có thể hy sinh thời gian, tiền bạc và công sức để chăm sóc, nâng niu các thiên thần nhỏ của mình với ước mong con khỏe mạnh, cao lớn, thông minh…

Tuy nhiên, mỗi đứa trẻ lại có cơ địa khác nhau, được chăm sóc dinh dưỡng khác nhau và tất nhiên sự phát triển cũng khác nhau, trong số đó có không ít trẻ rơi vào tình trạng thấp bé nhẹ cân.

Cách nào xác định trẻ thấp bé nhẹ cân?

Bạn hãy theo dõi cân nặng và chiều cao của trẻ từ 1 – 5 tuổi hàng tháng vào một ngày nhất định và chấm vào biểu đồ tăng trưởng của bé, bạn nên cân đo trên cùng 1 cái cân và 1 cây thước nhé, để con số theo dõi được chính xác nhất. Với bé dưới 24 tháng bạn đo chiều dài khi bé nằm, còn bé từ 2 – 5 tuổi bạn đo chiều cao khi bé đứng. Chú ý mỗi bé sẽ có 2 biểu đồ theo dõi cân nặng theo tuổi và chiều cao theo tuổi, đồng thời biểu đồ của bé trai và bé gái cũng khác nhau.

Nếu các điểm này nằm trong giới hạn từ số -2 đến số 2 ở cột phải của mỗi bảng hay nằm trong vùng màu xanh chứng tỏ bé nhà bạn đang phát triển rất tốt; sau đó hãy nối các điểm này lại với nhau, trường hợp cân nặng, chiều cao của bé ở trong khoảng này nhưng lại có xu hướng nằm ngang hoặc đi xuống là bé đang có nguy cơ thiếu dinh dưỡng, còn nếu nằm dưới đường này thì bé đã suy dinh dưỡng nhẹ cân hoặc thấp còirồi, bạn cần phải tìm hiểu nguyên nhân để nhanh chóng khắc phục cho bé.(xem thêm thế nào là suy dinh dưỡng)


Những nguyên nhân khiến trẻ thấp bé nhẹ cân

Sai lầm trong nuôi dưỡng
  • Trẻ không được bú mẹ đầy đủ, đặc biệt là trong 6 tháng đầu hoặc bị cai sữa mẹ sớm, nuôi dưỡng không đúng phương pháp khi trẻ thiếu hoặc không có sữa mẹ.
  • Cho ăn dặm quá sớm (trước 4 tháng tuổi), hoặc không biết cách cho con ăn thêm bột, rau, trái cây, đạm, đặc biệt là chất béo … ngoài những bữa bú mẹ sau 6 tháng.
  • Không biết ép trẻ ăn khi mắc bệnh lại dễ dàng kiêng cữ mọi thứ khi trẻ bệnh chỉ cho ăn cháo muối hoặc cháo đường kéo dài nhiều ngày.
  • Nuôi dưỡng kém vệ sinh, trẻ không được chủng ngừa theo lịch…
Do bệnh lý

Bệnh nhiễm trùng như các viêm nhiễm đường hô hấp, đường tiêu hoá tái phát, biến chứng hậu sởi, tiêu chảy kéo dài…
Bệnh không do nhiễm trùng:
  • Các bệnh làm tăng nhu cầu chuyển hóa như cường giáp, bỏng, phẫu thuật, chấn thương, bệnh lý có dùng corticoid.
  • Bệnh làm mất chất dinh dưỡng, qua đường ruột (bệnh ruột mất đạm, hội chứng ruột ngắn, cắt dạ dày hay ruột non, cắt nối ruột, dò đường tiêu hóa, hội chứng kém hấp thu, tiêu chảy nặng, suy tụy), qua thận (hội chứng thận hư, lọc thận mạn tính), các bệnh lý khác (vết thương hở, dẫn lưu áp xe, tràn dịch màng phổi dịch tiết)…
  • Các bệnh mạn tính như đái tháo đường, suy thận mạn, suy tim, bệnh gan mạn, viêm loét dạ dày, viêm khớp mạn, chậm phát triển tâm thần vận động, động kinh, hôn mê kéo dài.
Do cơ địa đặc biệt

Trẻ sinh non, suy dinh dưỡng bào thai, dị tật bẩm sinh (dị tật hệ tiêu hóa, hệ thần kinh, bệnh lý nhiễm sắc thể)…

Làm gì khi con thấp bé – nhẹ cân

Bạn phải thật bình tĩnh khi thấy bé bắt đầu có biểu hiện nguy cơ thấp bé nhẹ cân hoặc đã thấp bé nhẹ cân để tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục. Tốt nhất bạn hãy đưa bé đến bác sĩ nhi khoa hoặc bác sĩ dinh dưỡng để được khám và tư vấn đầy đủ. Khi đã biết được nguyên nhân, nếu do bệnh tật bác sĩ sẽ điều trị khỏi cho bé, nếu do chế độ dinh dưỡng bạn sẽ được tư vấn cách chăm sóc và bổ sung dinh dưỡng cho bé để giúp bé nhanh chóng thoát khỏi tình trạng thấp bé nhẹ cân và phát triển toàn diện.


Xem thêm các chủ đề:

Thai suy dinh dưỡng

Có từ 10-20% trẻ sinh ra có cân nặng dưới 2.500g đã bị suy dinh dưỡng (SDD) từ trong bào thai. (Xem thêm biểu hiện của trẻ suy dinh dưỡng)

Các nhà chuyên môn phân ra 3 mức độ suy dinh dưỡng:
  • Loại nhẹ: Trẻ có chiều dài bình thường và cân nặng giảm ít so với trẻ có cân nặng và tuổi thai tương ứng.
  • Loại trung bình: Trẻ có chiều dài và cân nặng giảm, vòng đầu bình thường.
  • Loại nặng: Trẻ có vòng đầu, chiều dài và cân nặng đều giảm.
Những trẻ có vòng đầu bình thường là loại suy dinh dưỡng nhẹ nhất, đa phần là do mẹ bị tăng huyết áp, nhiễm độc thai nghén thể nhẹ. Những trẻ này, khi phát triển trong thời kỳ bào thai, sự phân chia tế bào đã tương đối hoàn chỉnh, khối lượng tế bào bình thường, do đó vấn đề nuôi dưỡng không khó khăn lắm, nếu sống qua được giai đoạn sơ sinh và nuôi dưỡng đúng cách thì sau này trẻ sẽ phát triển tương đối bình thường về mặt tinh thần và vận động, mặc dù khi sinh bị nhẹ cân.

Những trẻ có vòng đầu nhỏ khi sinh đã có biểu hiện giảm rõ rệt số lượng tế bào trong cơ quan, chủ yếu là tế bào não ngay trong bào thai. Nếu ở mức độ trung bình, trẻ có thể sống qua được giai đoạn sơ sinh, nhưng khi sinh những trẻ này thường bị ngạt, viêm phổi, chảy máu, giảm đường huyết. Những trẻ này sẽ không phát triển bình thường, có khi chậm phát triển về tinh thần, chậm lớn và thậm chí còn có di chứng thần kinh. Nếu ở mức độ nặng, trẻ có thể bị chết trong giai đoạn sơ sinh (thường thấy phối hợp ở những thai có dị tật bẩm sinh) do bị ngạt, viêm phổi, hít phải nước ối và bị nhiễm trùng nặng.

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra sinh non cũng như làm thai chậm lớn trong tử cung: người mẹ mắc các bệnh như tim, thận, thiếu máu, suy nhược, nhiễm độc thai nghén nặng, trường hợp lớn tuổi sinh con so, hay sinh quá nhiều… Những yếu tố này đều có thể dẫn đến sự chậm lớn của thai mà nguồn gốc chính là do rối loạn dinh dưỡng của nhau thai, thêm vào đó sự tổn thương và rối loạn huyết động ở bánh nhau sẽ cản trở việc vận chuyển các chất dinh dưỡng nuôi thai, làm cho đứa trẻ không thể lớn lên được. Ngoài ra, người ta thấy rằng, những người mẹ có chiều cao dưới 1,4m và cân nặng dưới 40kg có thể sinh con đủ tháng, nhưng cân nặng thường dưới 2.500g.

Để phòng tránh thai suy dinh dưỡng, người mẹ cần phải ăn uống đủ chất và khám thai định kỳ.

Dưới đây là một số nguyên nhân có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của thai:

Bệnh nhiễm trùng ở người mẹ

Nếu mẹ mắc các bệnh nhiễm trùng, nhất là siêu vi trùng trong 3 tháng đầu của thai kỳ thì thai dễ bị chậm phát triển. Hiện tượng suy dinh dưỡng của thai có thể xảy ra từ tuần thứ 20. Ở thời điểm này, siêu vi trùng trong cơ thể mẹ dễ xâm nhập vào nhau thai và ảnh hưởng trực tiếp đến thai, làm ngừng sự phát triển của các tế bào. Những trường hợp này cũng dễ dẫn đến khả năng gây ra thai dị dạng. Do vậy đây là một nguy cơ gây suy dinh dưỡng thai trong tử cung cần được hết sức lưu ý.

Bệnh về nhau thai

Chủ yếu là tổn thương bánh nhau, gây rối loạn huyết động và dẫn tới suy nhau thai. Nhau thai bị bệnh thể hiện bằng nhiều hình thái như: có nhiều điểm tắc mạch nhỏ, gai nhau không có mạch máu, hoặc tắc mạch, bánh nhau bị vôi hóa từng vùng hay bị xơ hóa trong các bệnh nội tiết, nhiễm độc thai nghén kéo dài. Nếu nhau xơ hóa, gai nhau sẽ bị thoái hóa làm cho sự trao đổi sinh lý giữa mẹ và con bị suy giảm dẫn đến thai không phát triển được. Trường hợp bị suy mạn tính, thai có thể bị chết trong bụng mẹ, hoặc chết gần ngày sinh. Ngoài ra, các trường hợp dị dạng bánh nhau (động mạch đơn độc, hay dây rốn bám màng) cũng làm cho tuần hoàn mẹ con bị cản trở.

Chế độ dinh dưỡng của người mẹ

Rất nhiều thực nghiệm đã cho thấy mẹ ăn uống kém khi có thai sẽ sinh ra con nhẹ cân. Sự rối loạn dinh dưỡng của người mẹ, đặc biệt là thiếu protein (một chất quan trọng có vai trò trong sự phát triển của thai trong tử cung) sẽ làm cho thai chậm phát triển. Sự tăng cân chậm của người mẹ trong 3 tháng cuối của thai kỳ, hoặc tăng cân chậm dần từ tuần thứ 20 là nguyên nhân sinh ra thiếu cân.

Tất cả những chất dinh dưỡng có trong huyết tương của mẹ đều qua được màng nhau thai để nuôi trẻ, trừ một số chất do bị cản trở, hủy hoại, biến chất, hoặc một số kháng thể không qua được màng nhau. Vì vậy khả năng phòng bệnh của đứa trẻ cũng sẽ kém, nhất là những trẻ vốn đã yếu sẵn ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Ngoài ra, hiện tượng thiếu hụt các nguyên tố kim loại như sắt, đồng, mangan, magie trong chế độ ăn của người mẹ cũng gây tác hại xấu cho thai. Nếu người mẹ có chế độ dinh dưỡng đầy đủ và khỏe mạnh mà thai vẫn phát triển chậm, thì phải chú ý tới sự cản trở vận chuyển các chất từ mẹ sang con và chắc chắn là bánh nhau không bình thường. Do vậy người mẹ cần đi khám để được điều trị.

Như vậy, trong thời gian mang thai, người mẹ cần có chế độ dinh dưỡng đầy đủ, cân đối và phải khám thai đầy đủ để sớm phát hiện và điều trị bệnh có ảnh hưởng đến sự phát triển của thai.

(BS. Liên Hương – Theo SK & ĐS)

Xem thêm các chủ đề:

Phòng chống suy dinh dưỡng thai nhi

Theo nghiên cứu cho thấy có 4 yếu tố lớn ảnh hưởng đến việc phát triển dinh dưỡng của bào thai và sức khỏe sau này của trẻ. Bạn cần biết được 4 yếu tố này để có biện pháp phòng chống suy dinh dưỡng thai nhi.


Tuổi tác của người mẹ

Cơ thể của con người phát triển và lớn lên trong một quá trình rất dài, với phụ nữ độ tuổi trưởng thành khoảng 22 tuổi.

Do đó, độ tuổi từ  22-29 ở nữ có sức khỏe sinh sản tốt nhất, vì cơ thể đã phát triển toàn diện, chất lượng trứng cũng ở thời kỳ tốt nhất. Ở độ tuổi này người phụ nữ đã phát triển đầy đủ về cả tâm – sinh lý cho việc mang thai và làm mẹ. Từ độ tuổi 24-29, các điều kiện về nghề nghiệp, kinh tế gia đình sẽ thuận lợi cho việc chăm sóc sức khỏe khi mang thai cũng như chăm sóc em bé khi ra đời để trẻ được phát triển toàn diện.

Sức khỏe của bà mẹ

Sức khỏe của mẹ cũng sẽ là yếu tố quyết định cho sức khỏe của con. Nếu người mẹ khỏe mạnh sẽ sinh ra được những đứa con khỏe mạnh. Trong thời gian mang thai, nếu mẹ bị cúm, sốt phát ban, hoặc mắc các bệnh nhiễm khuẩn cấp,… nguy cơ trẻ đẻ ra bị chậm phát triển hoặc dị tật bẩm sinh. Đặc biệt, khi mẹ đang mắc những căn bệnh mãn tính như sốt rét, viêm gan, thấp tim cần phải chữa khỏi bệnh rồi mới mang thai.


Dinh dưỡng của người mẹ

Thời kỳ trẻ còn trong bào thai, dinh dưỡng của trẻ sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn dinh dưỡng của mẹ. Các dưỡng chất từ mẹ, sẽ đi qua máu, qua nhau thai để cung cấp cho con. Vì vậy khi có thai mẹ cần có chế độ ăn phù hợp cho mình và cho con.

Thành phần dinh dưỡng lúc này không chỉ cần có số lượng mà còn cần có chất lượng mới bảo đảm được sự phát triển của bào thai. Như khi mẹ ăn no, nhưng bữa ăn chỉ có tinh bột như cơm, khoai, đậu. Con sinh ra có thể có cân nặng tốt, nhưng chiều cao sẽ thấp, khi lớn lên đa số sẽ thấp lùn. Vì khung xương của trẻ cần được cấu tạo bởi dưỡng chất có từ chất đạm, đó là thịt, trứng, sữa, đậu, tôm, cá… Những dưỡng chất này sẽ giúp trẻ xây dựng nên các cơ quan như hệ thống não thần kinh trung ương, tim, gan, phổi, bộ máy tiêu hóa, hô hấp, tuần hoàn, tiết niệu,…

Ngoài ra, mẹ cũng cần phải bổ sung đủ loại rau xanh, hoa quả vì trong đó chứa nhiều chất khoáng như sắt, đồng, kẽm, canxi, photpho cũng như các loại vitamin, nếu thiếu những thứ này sẽ bị thiếu máu, còi xương, thiếu vitamin A, ảnh hưởng đến phát triển trí tuệ, còi xương, mù lòa do thiếu vitamin A, v.v…

Mẹ không nên chờ đến khi có thai mới bắt đầu chăm sóc cơ thể mà việc chăm sóc này cần được thực hiện sớm hơn để trẻ có được một cơ thể tương lai khỏe mạnh hơn. Đảm bảo bữa ăn luôn đa dạng và đủ 4 nhóm thực phẩm thiết yếu nhé.

Điều kiện lao động của mẹ khi mang thai và cho con bú

Khi mẹ có thai, ngoài năng lượng tiêu hao do lao động, mẹ sẽ phải dành ra một phần đáng kể năng lượng cho sự phát triển của thai nhi và dự trữ để tạo sữa cho con bú.

Theo đúng tiêu chuẩn, vào thời kỳ cuối của thai kỳ, mẹ cần phải tăng cân từ 12kg trở lên (3 tháng đầu tăng 1kg, 3 tháng giữa tăng 5kg, 3 tháng cuối mỗi tháng tăng 2kg). Nếu mẹ chỉ tăng được từ 6-7kg trong thời kỳ mang thai, sẽ không đủ dưỡng chất dự trữ để tạo sữa cho con. Chính vì vậy, mẹ cần có chế độ ăn uống thích hợp với tình trạng cơ thể và thai nhi. Đặc biệt đảm bảo đủ dưỡng chất và năng lượng cho mẹ và trẻ được cung cấp đủ dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển ngay từ khi còn là thai nhi.

Trong giai đoạn thai nghén mẹ vẫn có thể làm việc bình thường nhưng cần thiết tránh một số việc quá nặng nhọc, độc hại, không làm quá sức mà phải chú ý dinh dưỡng và nghỉ ngơi hợp lý.


Tóm lại, 4 yếu tố trên đây rất có ý nghĩa quyết định đến phát triển bào thai, sức khỏe trẻ lúc ra đời, sức khỏe thể chất và trí tuệ lâu dài sau này. (những biểu hiện của trẻ suy dinh dưỡng)

Xem thêm các chủ đề:

Vì sao trẻ biếng ăn?

Nếu bạn đã và đang nuôi trẻ nhỏ, hoặc nhìn thấy cảnh mẹ cho trẻ ăn thì ít nhiều sẽ có phần ngao ngán, bởi không phải trẻ nào cũng dễ ăn nếu không muốn nói rằng: để trẻ ăn ngoan lắm lúc khó khăn vô cùng! Chính vì thế việc trẻ biếng ăn luôn là một trong những nỗi lo lắng của rất nhiều bậc cha mẹ.

Biếng ăn là tình trạng trẻ không ăn, ăn ít, hoặc không muốn ăn vì nhiều nguyên nhân, lâu dần dễ dần đến tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em, khiến trẻ thiếu sức đề kháng và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển của trẻ.(xem thêm thế nào là suy dinh dưỡng)

Có 6 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng biếng ăn ở trẻ:
  1. Biếng ăn do bẩm sinh
Khi trẻ biếng ăn do bẩm sinh, trẻ chỉ thích ngủ và thường ngủ nhiều, không muốn ăn, uống bất bất cứ món gì, kể cả nước, cũng không thích một loại thực phẩm nào.

Nhóm trẻ biếng ăn do bẩm sinh cần được chăm sóc ở một chế độ dinh dưỡng đặc biệt. Nhưng bạn đừng vội lo lắng khi thấy con mình chối bỏ hết mọi thứ bạn cho nhé! Vì dạng trẻ biếng ăn này thường rất hiếm! Không phổ biến đâu!.
  1. Trẻ biếng ăn do thiếu hoặc thừa vi chất dinh dưỡng
Việc thừa hay thiếu các loại vi dưỡng chất cần thiết như Magie, Kẽm, Canxi, và các loại vitamin đều có thể gây nên tình trạng biếng ăn ở trẻ, khiến trẻ kém hấp thu và chậm phát triển.

Nếu nghi ngờ bé yêu bị thiếu một trong những loại vi chất trên, bạn đừng nôn nóng bổ sung ngay cho bé khi chưa biết chính xác bé thiếu khoáng chất nào, mà hãy đưa bé đến gặp bác sĩ để được thăm khám và tư vấn cả về liều và loại thuốc/ thực phẩm chức năng cần dùng nhé!.
  1. Biếng ăn do chế độ ăn không phù hợp

Nhiều phụ huynh mắc các sai lầm dễ dẫn đến việc trẻ không muốn ăn như:
  • Áp dụng khẩu phần ăn cho bé quá sớm (trước 4 – 6 tháng tuổi tùy trẻ)
  • Cho trẻ ăn thức ăn hầm nhừ, xay nhuyễn dù trẻ đã hơn 2 tuổi
  • Pha bột quá đặc khi mới cho trẻ tập ăn
  • Thường xuyên phải ăn những món giống nhau
Bên cạnh đó, lưỡi của mỗi trẻ nhỏ có cấu trúc gai vị giác khác nhau và khác bố mẹ, nên việc nêm nếm thức ăn không hợp khẩu vị có thể khiến trẻ lười ăn, từ đó cơ thể không hấp thu được các chất và dẫn đến suy dinh dưỡng.
  1. Biếng ăn do bệnh lý
Những chứng bệnh thường gặp ở trẻ như sốt, ho, sổ mũi, sâu răng, nhiệt miệng, rối loạn tiêu hóa… đều khiến trẻ mệt mỏi, chán ăn và mất ngủ, dễ dẫn đến sụt cân, xanh xao và yếu sức.

Không chỉ vậy, việc bố mẹ cho trẻ dùng nhiều loại thuốc kích thích ăn ngon miệng đôi khi có thể làm rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột, gây phản tác dụng kích ăn ở trẻ.

Để tránh suy dinh dưỡng cho trẻ sau thời gian mắc bệnh, các mẹ không nên quá kiêng cử mà hãy cho trẻ ăn những món yêu thích, được nấu mềm nhuyễn, dễ nuốt, bổ sung thêm sữa, nước trái cây và chia thành nhiều bữa nhỏ trong ngày.
  1. Trẻ biếng ăn do sinh lý
Sức ăn của trẻ sẽ giảm khi trẻ dần lớn và dần trải qua các giai đoạn phát triển như tập bò, tập đứng, tập nói, mọc răng,… Các mẹ đừng quá lo lắng! Vì đây chỉ là tình trạng biếng ăn sinh lý, chỉ xảy ra trong một giai đoạn ngắn, sau đó bé sẽ lại ăn uống như bình thường.
  1. Trẻ biếng ăn do tâm lý

Chắc hẳn bạn đã thấy cảnh mẹ đút bé không ăn nhưng bà, dì hay ai đó khen ngoan, dỗ ngọt thì bé lại nuốt ừng ực. Trẻ con chưa nhận thức được nhiều nên các bé rất dễ sợ hãi và có tâm trạng không tốt, đó cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng và thường xuyên dần đến tình trạng trẻ biếng ăn. 
Vì vậy, các mẹ nên tránh:
  • Buộc bé ăn hết bát trong 15 phút!
  • Ép bé ăn món mà bé không thích
  • Bắt trẻ ngồi yên một chỗ cho tới khi ăn xong
  • Hòa thuốc vào thức ăn, sữa, … sẽ làm trẻ có ấn tượng lâu dài về bữa ăn không ngon đó
  • Hăm dọa đánh nếu bé không ăn
  • Bắt trẻ ngừng làm việc yêu thích để ăn
Và nhiều tình huống thường gặp khác, bạn nên thật khéo léo để bé vừa vui vừa ăn, việc tạo nên bữa ăn không căng thẳng là một thành công lớn trong chiến dịch chống biếng ăn của các mẹ đấy!

Hiểu và xác định được nguyên nhân gây biếng ăn của bé yêu sẽ giúp bố mẹ tìm ra được cách khắc phục và phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ.

Ngày nay, có nhiều thực phẩm chức năng, thực phẩm đóng gói bổ sung dinh dưỡng cho trẻ, nhưng bạn nên nhớ những sản phẩm đó chỉ nên để dành dùng khi bất khả kháng, tạo thói quen cho bé dùng những sản phẩm đó thật không nên chút nào! Bởi việc cho bé ăn những nguyên liệu tự nhiên luôn luôn tốt hơn cả.

Dù nhịp sống có bận rộn, bạn cũng hãy dành thời gian ở bên bé, quan tâm và lắng nghe bé muốn gì, khi đó, việc cho con ăn sẽ không còn là một tập phim đầy nước mắt. Chống lại biếng ăn là cách hữu hiệu để đầy lùi suy dinh dưỡng ở trẻ em. Hãy là một người mẹ thông thái, luôn hiểu để yêu chiều bé đúng cách bạn nhé!

Vì sao bé cứ lắc đầu “chả” ăn?

Một trong những mối quan tâm lo lắng hiện nay của các gia đình đó là thói quen ăn uống của con mình. Bé cứ ngồi nhơi nhơi, rề rề, ẹo qua, ẹo lại, ngậm thức ăn không nuốt, các ông bố bà mẹ mất cả giờ đồng hồ để dỗ dành mà chén thức ăn chẳng vơi đi, cơm canh nguội ngắt hết cả ngon…họ cảm thấy bất lực, bực bội, lo lắng vì con biếng ăn mà không biết phải làm gì.

Biếng ăn bệnh lý và biếng ăn sinh lý

Có rất nhiều nguyên nhân làm bé biếng ăn và việc xác định nguyên nhân này hết sức quan trọng để tìm giải pháp khắc phục.
 
Trước hết cần phải lưu ý phát hiện các nguyên nhân biếng ăn bệnh lý như: nhiễm trùng do vi trùng hay vi rút xâm nhập; hoặc trẻ có bệnh về răng, miệng, mũi, họng; hoặc do rối loạn tiêu hóa; hoặc do thiếu vitamin, khoáng chất … làm trẻ mệt mỏi, sốt, ho…và đương nhiên sẽ bỏ ăn, bỏ bú, sụt cân… Việc cần thiết là điều trị dứt điểm bệnh cùng chế độ dinh dưỡng hợp lý, trẻ sẽ nhanh chóng phục hồi bắt kịp đà tăng trưởng.

Một nguyên nhân khác là biếng ăn do thuốc, do uống kháng sinh, sử dụng thuốc đặc trị kéo dài hoặc tự ý sử dụng thuốc bổ liều cao kéo dài.

Bé cũng sẽ có một số giai đoạn biếng ăn sinh lý trùng vào các thời điểm mọc răng, biết bò, biết đi… bé tự dưng ăn ít trong vài ngày nhưng vẫn vui vẻ chơi đùa, sau đó bé tự ăn lại bình thường. quan trọng là cha mẹ phải hiểu những điều này không nên ép trẻ ăn quá mức lại gây ra biếng ăn tâm lý.


Biếng ăn tâm lý

Tuy nhiên nguyên nhân thường gặp nhất là biếng ăn tâm lý, do cha mẹ không hiểu được tâm sinh lý của bé. Do cuộc sống bận rộn, căng thẳng, không có nhiều thời gian nên bữa ăn của bé không thoải mái, không có thời gian bé vừa ăn vừa chơi để khám phá sự tuyệt diệu của thức ăn bằng tất cả các giác quan: vị giác, khứu giác, xúc giác, được cầm, bốc thức ăn hay thị giác chén dĩa hình thù ngộ nghĩnh, nhiều màu sắc… Bé không chịu ăn vì các ám ảnh về không khí của bữa ăn, loại thức ăn, mùi vị thức ăn… hay đơn giản chỉ là một biểu hiện tâm lý để chứng tỏ chính mình, như là một “vũ khí” chống lại người lớn trước sự nhồi nhét hay để đòi hỏi một nhu cầu nào khác mà không được đáp ứng.

Những sai lầm dẫn đến biếng ăn

Ngay từ giai đoạn bú sữa một số người pha sữa cho bé đặc hơn, pha sữa với nước hầm xương, nước cơm, bột vì nghĩ sẽ nhiều dưỡng chất hơn nhưng lại làm bé khó tiêu hóa, lâu ngày dẫn đến không chịu bú.

Kế tiếp là giai đoạn ăn dặm cũng rất quan trọng, ăn quá sớm (trước 4 tháng tuổi) dễ làm rối loạn tiêu hóa. Chế biến thức ăn theo cách cổ điển của ông bà xưa ngày nào cũng hầm xương, khoai tây, cà rốt, củ dền…thành công thức đơn điệu mỗi ngày làm cho bé ngán, mất cảm giác ngon miệng, thèm ăn hoặc các bữa ăn chỉ hầm lấy nước thịt, rau củ mà không có xác dẫn đến bé bị thiếu những dưỡng chất quan trọng như đạm, lysine, kẽm… đều gây biếng ăn. Hoặc cho bé ăn cơm quá sớm lúc 10 – 12 tháng khi bé chưa đủ răng nhai làm bé khó tiêu hóa và ăn không được nhiều, một số gia đình lại xay nhuyễn thức ăn cho đến khi trẻ 2 – 3 tuổi làm bé không có phản xạ nhai để thưởng thức các loại thức ăn khác nhau, chỉ biết nuốt thức ăn như bổn phận.

Bên cạnh đó, việc kiêng cữ quá mức khi trẻ bệnh như tiêu chảy, viêm phổi, sốt… chỉ cho ăn cháo trắng, kiêng dầu, mỡ, thịt cá làm trẻ dễ bị suy dinh dưỡng sau bệnh (xem thêm thế nào là suy dinh dưỡng), chậm hồi phục gây biếng ăn kéo dài.

Đồng thời việc cho trẻ sử dụng trước bữa ăn các loại thức ăn vặt như bánh kẹo, chocolate, kem, nước ngọt, thức ăn nhanh… làm bé ngang bụng, càng biếng ăn hơn.

Bé nhà bạn có thật sự biếng ăn không?

Thực tế có một số các trường hợp bé biếng ăn do cha mẹ cảm thấy hơn là biếng ăn thật sự. Bé vẫn phát triển cân nặng chiều cao đều đặn, vẫn khỏe mạnh và vui chơi, như vậy là bữa ăn đã đủ nhu cầu, dù số lượng thức ăn không bằng các bé khác cùng lứa tuổi, trong khi mong muốn của bố mẹ là con ăn nhiều hơn nữa, tăng cân nhanh hơn nữa nên cố ép trẻ ăn vô tình làm trẻ trở nên biếng ăn thật sự.

Hãy lưu ý rằng mỗi cá thể là khác nhau, nhu cầu cơ thể cũng khác nhau và sự tăng cân cũng không trẻ nào giống trẻ nào, miễn là bé vẫn tăng cân đều, khỏe mạnh, lanh lợi, hoạt bát, vui vẻ chứng tỏ bé đã nhận đủ nhu cầu dinh dưỡng cần thiết.

Tóm lại vì sao con “chả” ăn

– Do bầu không khí ăn uống căng thẳng, đầy bạo lực;
– Thời điểm cho ăn dặm không phù hợp;
– Do cách chế biến thức ăn sai lầm, đơn điệu;
– Do con sắp bệnh hay đang bệnh, con đang mọc răng, con chuẩn bị tập bò, tập đi; và
– Do dùng thuốc bổ quá liều, hoặc do cha mẹ lo con… biếng ăn trong khi con chẳng biếng ăn.

 
Copyright © 2014 Kiến Thức Phổ Thông. Designed by OddThemes